- Lộ giới: 17m; Lòng đường: 8m, vỉa hè 2x4,5m, độ dài 250m, kết cấu mặt đường nhựa.
- Điểm đầu: giáp đường số 20 (dự kiến đặt tên Nguyễn Hữu Dật), ấp Xóm Lớn, xã Lý Văn Lâm; Điểm cuối: giáp đường Phan Xích Long, ấp Xóm Lớn, xã Lý Văn Lâm.
Trần Cao Vân (1866-1916), Nhà yêu nước, lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Duy Tân, quê Tư Phú, tổng Đa Hòa, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (nay là huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng).
Thuở nhỏ ông học chữ Hán, khi đi thi lấy tên là Trần Cao Đệ, lúc vào chùa lấy pháp danh là Như Ý, biệt hiệu Hồng Việt, Chánh Minh, Bạch Sĩ. Lúc hoạt động chống Pháp mới đổi tên là Trần Cao Vân.
Năm 1886, ông vào tu tại chùa Cổ Lâm (thuộc huyện Đại Lộc) rồi ra mở trường dạy học nhằm chiêu tập chiến hữu. Năm 1892, ông từ Quảng Nam vào hoạt động ở Bình Định, Phú Yên, tại đây ông cùng các chiến hữu tạo được nhiều cơ sở chống Pháp như Võ Trứ, thầy chùa Đá Bạc (ở Phú Yên, Bình Định).
Năm 1898, cuộc khởi nghĩa của Võ Trứ thất bại (do ông làm cố vấn, ông bị bắt giam ở ngục Phú Yên một thời gian ngắn vì nhờ Võ Trứ đã khẳng khái nhận tất cả hậu quả do mình gây ra. Ra tù chưa được 2 năm thì năm Canh Tý 1900 ông lại bị bắt giam tại nhà lao Bình Định vì vụ án “Trung thiên dịch” “Yêu thơ yêu ngôn” xúi nhân dân phiến loạn, bị kết tội đưa về giam ở Quảng Nam, đến năm 1907 mới được trả tự do.
Năm 1908, phong trào Duy Tân lên cao, ông lại bị thực dân bắt lần nữa, đày ra Côn Đảo đến năm 1914 mới phóng thích,
Năm 1915, ông và các đồng chí thành lập Hội “Việt Nam Quang phục”. Theo chương trình của Hội ông và Thái Phiên chịu trách nhiệm liên lạc với vua Duy Tân tổ chức khởi nghĩa.
Kế hoạch khởi nghĩa sẽ tiến hành vào lúc 1 giờ sáng ngày 3 – 5 – 1916, nhưng cơ mưu bị tiết lộ, ông và vua Duy Tân bị bắt tại Hà Trung (ngoại thành Huế). Vua Duy Tân Bị Pháp lưu đày sang Châu Phi, ông và Thái Phiên, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu bị chém tại pháp trường An Hòa (gần Huế), thi hài ông và các chiến hữu bị chôn chung một huyệt.
Ông mất năm 1916, hưởng dương 50 tuổi.